Thứ năm, 11/02/2021 - 14:42
HỘI ĐIỀU DƯỠNG VIỆT NAM – DẤU ẤN VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGHỀ ĐIỀU DƯỠNG
ThS. Phạm Đức Mục, Chủ tịch Hội Điều dưỡng Việt Nam
Hội Điều dưỡng Việt Nam vững bước thực hiện sứ mệnh: “Vì nghề nghiệp, Vì hội viên và Vì sức khoẻ cộng đồng”. Tác giả bài báo điểm lại những dấu ấn vận động chính sách phát triển chuyên ngành điều dưỡng của Hội Điều dưỡng Việt Nam và những kiến nghị chính sách cần được xây dựng, bổ sung, điều chỉnh tạo đà cho chuyên ngành Điều dưỡng phát triển và người bệnh được thừa hưởng chất lượng chăm sóc tốt nhất của điều dưỡng.
1.1. Trước 1975
Công tác điều dưỡng tại các tỉnh phía Nam phát triển sớm hơn phía Bắc cả ba lĩnh vực đào tạo, quản lý và hội nghề nghiệp. Nhiều cán sự điều dưỡng được tu nghiệp tại Anh, Mỹ, Úc… như mô tả trong bảng dưới đây:
Đặc điểm phát triển | Miền Bắc | Miền Nam |
Trước 1975 | ||
1. Tên nghề | – Y tá | – Cán sự Điều dưỡng
– Tá viên |
2. Thời gian đào tạo | – Y tá sơ cấp 9 tháng
– Y tá trung cấp 2.5 năm |
– Cán sự Điều dưỡng 3 năm
– Tá viên 1 năm |
3. Trường đào tạo | – Trường trung cấp y tế | – Trường cán sự y tế
– Trường cán sự điều dưỡng |
4. Tổ chức Điều dưỡng bệnh viện | – Y tá trưởng bệnh viện | – Phòng ĐDBV
– Điều dưỡng giám thị |
5. Bộ Y tế | – Không có
|
– Có Vụ Điều dưỡng với 3 phòng Kỹ thuật, đào tạo và giám thị vùng |
6. Hội nghề nghiệp | – Chưa có hội | – Có Hội Y tá Ái Hữu |
1.2. Từ sau 1975- 1990
Ngay sau khi đất nước thống nhất, các thể chế nghề Y tá áp dụng thống nhất cả nước theo mẫu hình Miền Bắc. Bỏ ngạch cán sự điều dưỡng, chức danh Điều dưỡng được gọi thống nhất là Y tá và Trường cán sự điều dưỡng đổi thống nhất thành Trường trung cấp y tế.
Y tá chỉ được đào tạo ở trình độ trung cấp, nhiệm vụ chính yếu là thực hiện y lệnh y-bác sĩ, lương thấp, vị thế thấp. Nghề y tá giảm sự hấp dẫn, hàng loạt y tá bỏ nghề hoặc xin chuyển nghề sang học y sĩ, bác sĩ.
Các chuyên gia điều dưỡng Thụy Điển (Sidka Bloom, Eva Jonhanson, Anmarie Nilson, Erma Decal..) đã thổi vào nước ta tư duy mới về nghề Y tá. GS.TS Nguyễn Thu Nhạn, Nguyên Giám đốc Viện Bảo vệ sức khỏe trẻ em (nay Bệnh viện Nhi Trung ương) và cố BS Nguyễn Ngọc Hàm, Nguyên Giám đốc Bệnh viện Việt Nam Thụy Điển Uông Bí là những thầy thuốc tiên phong đổi mới công tác y tá bệnh viện. Lãnh đạo hai bệnh viện đã ưu tiên cử nhiều y tá sang Thụy Điển học tập, nghiên cứu và sau đó tổ chức các hội nghị vận động Bộ Y tế cho phép thành lập Phòng Y tá thí điểm tại bệnh viện Nhi Trung ương và Ban Y tá tại Bệnh viện Việt Nam Thụy Điển Uông Bí.
Nhóm y tá trưởng khu vực Hà Nội, trong số đó có Bà Vi Thị Nguyệt Hồ, Phạm Đức Mục, Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Thị Niên và nhóm Điều dưỡng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh: Trịnh Thị Loan, cố ThS Nguyễn Hoa, Trần Thị Thuận, Trần Thị Châu…đã vận động cho phép thành lập các Hội Điều dưỡng khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Hội Y tá Hà Nội và Hội Y tá Quảng Ninh, tiền đề cho việc ra đời Hội Y tá-Điều dưỡng Việt Nam.
2.NHỮNG DẤU ẤN VẬN ĐỘNG CHÍNH SÁCH
2.1.Vận động thành lập Hội Y tá-Điều dưỡng Việt Nam (1990)
(1) Bối cảnh
Trước những năm 1990, các tổ chức xã hội nghề nghiệp chưa phát triển, việc xin phép thành lập hội Trung ương hết sức khó khăn, phải được Hội đồng Bộ trưởng phê duyệt.
Nghề Y tá khi đó chỉ được đào tạo trung cấp và phụ thuộc nặng nề vào bác sĩ. Bác sĩ vừa dạy ở trường vừa hướng dẫn thực hành lâm sàng. Y tá trở thành người trợ tá bác sĩ. Người Y tá chịu nhiều thiệt thòi, không có tổ chức đại diện, không tiếng nói đại diện.
Sự nhiệt huyết hoạt động của nhóm Y tá “tiên phong” khu vực Hà Nội, Quảng Ninh và nhóm Cán sự Điều dưỡng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh với sự hậu thuẫn của lãnh đạo BV Nhi Trung ương, Bệnh viện Việt Nam Thụy Điển Uông Bí, cố BS Phạm Văn Thân đã xúc tiến việc thành lập Hội với sự hỗ trợ hiệu quả của các chuyên gia Điều dưỡng Thụy Điển.
(2) Các hoạt động phối hợp và kết quả
1985: Nhóm điều dưỡng các tỉnh phía Nam tiên phong thành lập Hội Điều dưỡng khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hội Y học Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định (do tính pháp lý không đủ nên sau này không làm được con dấu).
1989: Hội Y tá Quảng Ninh do cố BS Nguyễn Ngọc Hàm hỗ trợ được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh cho phép thành lập (Phù hợp với quy định pháp lý thời đó).
1989: Nhóm Y tá Hà Nội với sự giúp đỡ của cố BS Phạm Văn thân thành lập Hội ĐD Hà Nội vào 12/5/1989 do Sở Y tế Hà Nội ra quyết định (tính pháp lý chưa đầy đủ nên đến 2005 khi sáp nhập tỉnh Hà Tây vào Hà Nội mới được công nhận chính thức)
1989: Để chuẩn bị cho sự vận động thành lập Hội Y tá Việt Nam, Tổ chức SIDA Thụy Điển mời đã mời bà Vi Thị Nguyệt Hồ và ông Phạm Đức Mục tham dự Hội nghị ICN lần thứ 19 tại Hàn Quốc với tư cách là quan sát viên và khách mời của Hội Điều dưỡng Thụy Điển. Sau đó, thành lập Ban vận động lập Hội Y tá Việt Nam do Bà Vi Thị Nguyệt Hồ là trưởng ban, các Phó ban gồm: Phạm Đức Mục, Trịnh Thị Loan, Nguyễn Hoa, Nguyễn Thị Niên và một số thành viên như Nguyễn Hải Ninh, Nguyễn Văn Thiều, Nguyễn Thị Hằng với sự hỗ trợ nhiệt huyết của cố BS. Phạm Văn Thân và các chuyên gia Điều dưỡng Thụy Điển. Mặc dù Ban vận động đã nhiều lần tiếp cận với các cơ quan Chính phủ giải trình và xin phép lập hội nhưng chờ đợi nhiều tháng vẫn không nhận được sự đồng ý của Chính phủ
1990: Nhờ sự ủng hộ của cố Chủ tịch Tổng hội Y Dược học GS. Hoàng Đình Cầu đã có sáng kiến cho phép Ban vận động tổ chức Đại hội trù bị tại Hội trường Ba Đình. Cùng ngày, khi Đại hội trù bị đang diễn ra thì nhận được Quyết định cho phép thành lập Hội do Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Nguyễn Khánh) ký. Khi đó, Hội Y tá-Điều dưỡng Việt Nam là một trong số ít các hội nghề nghiệp được thành lập trong ngành y tế.
2020: Sau 30 năm thành lập, Hội Điều dưỡng Việt Nam đã phát triển hệ thống tổ chức hoạt động trên phạm vi toàn quốc, 61/63 tỉnh thành hội, 3 Chi hội chuyên khoa, 1 hội ngành, 8 Chi hội trực thuộc, 01 Trung tâm tư vấn và >100 ngàn hội viên. Hội đã chứng minh có thể phát triển theo nguyên tắc Tự chủ, Tự nguyện, Tự quản và Tự lo kinh phí.
2.2. Vận động xây dựng hệ thống quản lý y tá – điều dưỡng các cấp
(1) Bối cảnh
Trước 1975, Bộ Y tế Sài Gòn có Vụ Điều dưỡng, có 3 Phòng là Phòng kỹ thuật, Phòng đào tạo và Phòng giám sát các vùng. Bệnh viện có Phòng Điều dưỡng. Nhiều Điều dưỡng trưởng Bệnh viện được học tập tu nghiệp ở nước ngoài. Miền Bắc chưa có hệ thống tổ chức quản lý y tá ở các cấp.
Sau năm 1975, nhờ sự vận động của các chuyên gia Thụy Điển và sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo Bệnh viện Nhi Trung ương cũng như Bệnh viện Việt Nam Thụy Điển Uông Bí, sự ủng hộ của các bậc thầy có tiếng nói tâm huyết như GS.TS Nguyễn Thu Nhạn, cố BS Nguyễn Ngọc Hàm, BS Hoàng Điển Phan, GS.TS Đỗ Đình Hồ và một số lãnh đạo Cục KHCN&ĐT-Bộ Y tế, Vụ Điều trị…đã đưa vấn đề xây dựng hệ thống tổ chức quản lý y tá ở các cấp vào bàn thảo trong các diễn đàn, hội nghị của Bộ Y tế.
(2) Hệ thống quản lý Điều dưỡng từng bước hình thành
2.3. Vận động đổi tên nghề Y tá thành Nghề Điều dưỡng
(1) Bối cảnh
Từ sau 1975, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, xuất hiện một nghề có hai tên gọi khác nhau. Miền Bắc gọi Y tá. Miền Nam gọi Điều dưỡng. Y tá hướng tới một nghề trợ tá bác sĩ và Điều dưỡng hướng tới một nghề vừa săn sóc vừa điều trị người bệnh. Mỗi tên gọi đã quen thuộc đối với cán bộ y tế và người dân mỗi miền.
Y tá là tên gọi chính thức theo pháp luật. Vì vậy, hầu hết những người làm công việc chăm sóc người bệnh, đặc biệt các tỉnh Phía Nam tha thiết kiến nghị Nhà nước bỏ nghề Y tá thay bằng nghề Điều dưỡng
Việc đổi tên tưởng chừng đơn giản nhưng không dễ dàng một sớm một chiều. Bên cạnh những khác biệt về quan điểm, quan niệm còn một khó khăn khác là cụm từ Điều dưỡng đã được Bộ Y tế sử dụng cho hệ thống các Nhà Điều dưỡng, nơi an dưỡng của cán bộ y tế là những rào cản cho việc đổi tên Y tá thành Điều dưỡng.
(2) Những nỗ lực không mệt mỏi của Hội Điều dưỡng Việt Nam
1990: Vận động sử dụng danh từ kép Y TÁ-ĐIỀU DƯỠNG. Được Bộ Y tế lần đầu tiên chấp nhận chính thức tại Quyết định số 570/QĐ-BYT về thành lập Phòng Y tá-Điều dưỡng trong các bệnh viện có từ 150 giường bệnh trở lên và Quyết định 375 – CT của Hội đồng Bộ trưởng cho phép thành lập Hội Y tá-Điều dưỡng Việt Nam
2.4. Vận động bổ sung Bảng lương ngạch Điều dưỡng Cao đẳng và ngạch Điều dưỡng chính (sau đại học)
(1) Bối cảnh
Nghề điều dưỡng phát triển nhưng chính sách không đồng bộ: Giai đoạn 1990-2010 là thời kỳ phát triển nhanh nhất của nghề Y tá-Điều dưỡng Việt Nam. Hệ thống điều dưỡng trưởng được thành lập từ BYT tới các Sở Y tế và các bệnh viện toàn quốc. Hệ thống đào tạo có thêm ba cấp trình độ: cao đẳng, đại học và thạc sĩ/chuyên khoa I. Sự phát triển nhanh của nghề Điều dưỡng đã tạo nên những bất cập, thiệt thòi do chính sách vừa thiếu đồng bộ vừa ban hành không kịp thời.
Bằng Điều dưỡng nhưng ngạch công chức là Y tá: Ngạch công chức không tương đồng với văn bằng đào tạo. Quyết định số 415/TCCP-VC ngày 29 tháng 5 năm 1993 về các ngạch công chức ngành y tế, nghề y tá chỉ có ba ngạch theo trình độ đào tạo là Y tá (sơ cấp), Y tá chính (trung cấp), Y tá cao cấp (đại học). Không có Ngạch Y tá cao đẳng và Ngạch sau đại học.
Tốt nghiệp cao đẳng và cử nhân điều dưỡng nhiều năm không được nâng ngạch: Giai đoạn 1997-2005 có tới hàng ngàn điều dưỡng viên cao đẳng, đại học sau khi tốt nghiệp không được thi nâng ngạch, thiệt thòi kéo dài, đơn kiến nghị nối tiếp nhau gửi về Bộ Y tế và Văn phòng Hội Điều dưỡng Việt Nam. Việc ban hành chính sách không kịp thời, làm hàng ngàn điều dưỡng viên ngậm ngùi về hưu chỉ được hưởng lương trung cấp. Bất cập nối tiếp bất cập!.
(2) Hội Điều dưỡng Việt Nam phối hợp với Bộ Y tế thuyết phục Bộ Nội vụ
Hội Điều dưỡng Việt Nam kêu gọi hỗ trợ của Hội Điều Dưỡng Canada, phối hợp cùng Bộ Y tế (Vụ Tổ chức cán bộ) xây dựng Dự thảo quyết định các ngạch công chức Điều dưỡng để Bộ Nội vụ ban hành.
Dự thảo Quyết định Bộ Nội vụ về ngạch công chức điều dưỡng với 2 đề xuất sửa đổi rất cơ bản: (1) Bỏ ngạch y tá thay bằng ngạch Điều dưỡng; (2) Bổ sung từ 3 ngạch y tá (y tá, y tá chính, y tá cao cấp) thành 6 ngạch công chức Điều dưỡng đồng thời mô tả tiêu chuẩn và nhiệm vụ cho từng ngạch:
Dự thảo quyết định các ngạch công chức điều dưỡng mặc dù đã được thảo luận trong nhiều hội thảo lấy ý kiến góp ý trong và ngoài ngành. Tuy nhiên, Bộ Nội vụ còn băn khoăn về sự khác biệt nhiệm vụ chuyên môn của 6 ngạch Điều dưỡng do hệ thống đào tạo điều dưỡng khi đó có quá nhiều cấp đào tạo từ sơ cấp đến thạc sĩ.
Lãnh đạo Hội Điều dưỡng Việt Nam đăng ký làm việc nhiều lần với lãnh đạo Vụ Công chức – Bộ Nội vụ để trao đổi ý kiến. Cuối cùng, Bộ Y tế đã ký Văn bản đề xuất và Bộ Nội vụ đã ký ban hành Quyết định số 41/2005/QĐ-BNV về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp điều dưỡng. Theo đó, chính thức đổi tên nghề Y tá thành Điều dưỡng và công nhận 6 ngạch Điều dưỡng theo văn bằng đào tạo.
Quyết định số 41/2005/QĐ-BNV về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp điều dưỡng không áp dụng với Hộ sinh dẫn đến giai đoạn từ 2005-2015 hộ sinh muốn học đại học phải vận dụng bằng Điều dưỡng phụ sản và vận dụng ngạch điều dưỡng để xếp lương cho hộ sinh!.
2.5. Vận động Danh hiệu thầy thuốc ưu tú
(1) Bối cảnh
Kể từ Thông tư 14-BYT/TT ngày 7 tháng 4 năm 1987 cho tới 2005 (18 năm) danh hiệu Thầy thuốc ưu tú và Thầy thuốc nhân dân chỉ xét cho đối tượng là y sĩ, bác sĩ, dược sĩ, thầy thuốc y học dân tộc làm công tác chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế từ Trung ương đến địa phương.
Điều dưỡng, Hộ sinh và Kỹ thuật viên không được xét và không được tham gia bầu chọn Thầy thuốc ưu tú. Những bất cập về đối tượng xét tặng danh hiệu cao quý của ngành y tế cùng với những bất hợp lý đối với cống hiến thầm lặng của lực lượng điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên đa phần là phụ nữ đã tác động không nhỏ tới nhiệt huyết và tự hào nghề nghiệp của hàng ngàn điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên.
(2) Các nỗ lực đề xuất của Hội Điều dưỡng Việt Nam
Hội Điều dưỡng Việt Nam đã có nhiều Văn bản kiến nghị Bộ Y tế và Hội đồng thi đua Nhà nước đề nghị điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên được tham gia xét và bầu chọn Thầy thuốc ưu tú.
Không chỉ có kiến nghị bằng văn bản mà còn trình bày quan điểm của hội trong nhiều hội nghị, hội thảo và cuối cùng Bộ Trưởng Bộ Y tế (PGS.TS Trần Thị Trung Chiến) đã có Văn bản đề nghị với Hội đồng thi đua Nhà nước.
Năm 2007, Hội đồng thi đua Nhà nước chấp nhận đề nghị của Bộ Y tế, bổ sung thêm vào danh sách đối tượng được xét danh hiệu Thầy thuốc ưu tú bao gồm điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên. Mặc dù việc xét chọn còn khó khăn ở cấp cơ sở nhưng đã có hàng ngàn điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên được Nhà nước công nhận danh hiệu cao quý “Thầy thuốc ưu tú”.
Bên cạnh những dấu ấn về vận động chính sách phát triển nghề Điều dưỡng như đã nêu trên. Còn nhiều chính sách khác Hội Điều dưỡng Việt Nam đã tham mưu và tư vấn phản biện với Bộ Y tế và Nhà nước như:
2.6. Đặt nền móng lĩnh vực nghiên cứu điều dưỡng
(1) Bối cảnh
Trước 2000, Nghiên cứu điều dưỡng được đa số cho là “xa xỉ”. Thời điểm đó, 85% nhân lực điều dưỡng trình độ trung cấp, 10% sơ cấp, mới có khoảng <5% cao đẳng và một số có trình độ đại học.
Hội ĐDVN cần khẳng định “Điều dưỡng là khoa học chăm sóc con người và là một nghề chuyên nghiệp”. Nghiên cứu là chìa khóa để vào khoa học, tạo kiến thức mới và phát riển nghề nghiệp. Vì vậy, Hội đã thực hiện hàng loạt các can thiệp đặt nền móng cho lĩnh vực nghiên cứu điều dưỡng phát triển.
(2) Hội Điều dưỡng Việt Nam tổ chức tiên phong phát triển nghiên cứu điều dưỡng
1993: khởi xướng xuất bản Thông tin Điều dưỡng và được Bộ Văn hóa – Thông tin đồng ý tại Quyết định số 745/BC-GPXB ngày 15 tháng 6 năm 1993. Ths. Phạm Đức Mục là Tổng biên tập và Phó Tổng biên tập là ông Nguyễn Hải Ninh.
2000: Xuất bản sách Nghiên cứu điều dưỡng đầu tiên do Hội tổ chức biên soạn do ThS. Phạm Đức Mục chủ biên và tài liệu được sử dụng toàn quốc để dạy học về Phương pháp nghiên cứu điều dưỡng. Nhà xuất bản Y học và Nhà xuất bản Giao thông vận tải đã tái bản lần nhất năm 2005, lần 2 năm 2007
2001: Tổ chức khóa học Nghiên cứu điều dưỡng đầu tiên tại bệnh viện Nhi Trung ương, sau đó các khóa học Nghiên cứu điều dưỡng được tổ chức tại khu vực Hà Nội, Hồ Chí Minh và Huế. Một số khóa học ban đầu có sự hỗ trợ của Hội Điều dưỡng Canada. Sau này, các Hội thành viên ở các tỉnh thành và các chi hội tự tổ chức có sự hỗ trợ chuyên môn của Trung ương hội.
2002: Hội nghị Khoa học điều dưỡng toàn quốc lần thứ nhất vào năm 2002. Sau đó duy trì hai năm 1 lần. Hội nghị Khoa học Điều dưỡng toàn quốc lần thứ IX được tổ chức vào 2020 tại Hà Nội. Các Hội nghị khoa học điều dưỡng toàn quốc có hàng ngàn hội viên tham gia và nhiều đề tài có giá trị được các báo cáo viên trong nước và quốc tế chia sẻ tại hội nghị.
2005: Vận động đưa môn học Nghiên cứu điều dưỡng vào chương trình đào tạo điều dưỡng chính quy. Các thành viên lãnh đạo của Hội tham gia là thành viên các Hội đồng Chương trình đào tạo Điều dưỡng như Phạm Đức Mục, Nguyễn Bích Lưu, Trần Thị Thuận đã vận động đưa Môn học Nhiên cứu điều dưỡng vào các Chương trình đào tạo cử nhân điều dưỡng.
2006: Vận động đưa Tiêu chí Nghiên cứu điều dưỡng vào Bộ tiêu chí kiểm tra Bệnh viện hàng năm để khuyến khích nghiên cứu điều dưỡng trong các bệnh viện
2012: Nâng cấp Thông tin điều dưỡng thành Tạp chí Điều dưỡng Việt Nam những năm đầu do Thạc sĩ Phạm Đức Mục làm Tổng biên tập và từ năm 2017, phân công Tiến sĩ Trần Quang Huy làm Tổng biên tập. Tạp chí được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp giấy phép hoạt động báo chí số 1004/GP – BTTTT, mã chuẩn Quốc tế: ISSN 2354-073, điểm khoa học 0,5 điểm
Có thể khẳng định kết quả vận động chính sách của Hội Điều dưỡng Việt Nam đã đặt nền móng cho nghề điều dưỡng phát triển như ngày nay. Đồng thời, góp phần khẳng định nghề điều dưỡng trong ngành y tế và trong xã hội. Tuy nhiên, phía trước còn nhiều khó khăn bất cập Hội cần tiếp tục kiến nghị với Bộ Y tế và Nhà nước tháo gỡ để giúp cho ngành điều dưỡng hội nhập và phát triển.
3.1. Thiếu hướng dẫn của Bộ Y tế về thực hiện chỉ tiêu phát triển nhân lực điều dưỡng viên trong toàn bộ hệ thống y tế theo NQ số 20/NQ-TW
3.2. Thiếu hướng dẫn Bộ Y tế về phạm vi hoạt động chuyên môn của điều dưỡng
3.3. Duy trì, củng cố và phát triển hệ thống Quản lý điều dưỡng theo hướng hội nhập
11-10-2020
Văn phòng Hội Điều dưỡng Việt Nam xin gửi đến quý thầy/cô, anh/chị Thông báo số 3 về việc đăng ký đề tài báo cáo tại Hội nghị khoa học Điều dưỡng...
18-11-2020
Kính gửi quý độc giả Năm 2020, Hội Điều dưỡng Việt Nam sẽ phối hợp với Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định và Tổ chức Y tế Thế giới tại Việt...
20-12-2020
Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên đánh giá cao những đóng góp quan trọng của Hội Điều dưỡng Việt Nam vào sự phát triển của y học Việt Nam, xong Thứ...
06-05-2024
Hội Điều dưỡng Việt Nam sẽ tổ chức Hội nghị khoa học Điều dưỡng toàn quốc lần thứ X vào tháng 10 năm 2022, Văn phòng xin gửi đến Quý thầy/cô,...
11-02-2021
Hội Điều dưỡng Việt Nam – Ba mươi năm đóng góp xây dựng và phát triển chuyên ngành điều dưỡng ThS Phạm Đức Mục – Chủ tịch Hội Điều dưỡng Việt...